Hiển thị các bài đăng có nhãn Sưu tầm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sưu tầm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 23 tháng 7, 2012

Về Nam Định ăn phở 5 nghìn


Nói đến Nam Định, người ta nhớ ngay đến đặc sản phở bò gia truyền, nhưng có lẽ chưa nhiều người biết ngay giữa lòng thành phố dệt này có một quán bún - phở giá chỉ 5.000 đồng một tô.

Nằm trong con hẻm nhỏ đường 19.5, P.Trần Tế Xương, TP.Nam Định, nhưng 6 năm nay, quán bún, phở “chị Béo” lúc nào cũng tấp nập khách. Chủ quán tên là Trần Thị Trung, nhưng do dáng người chị đẫy đà, nên khách hàng trìu mến gọi là chị Béo, từ đó mà cũng thành tên quán luôn.
phở 5 nghìn
Chị Trung bên quán phở giá chỉ 5.000 đồng một tô - Ảnh Lam Thanh

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Trầm Bê - Đại gia bí ẩn ngành ngân hàng

Thứ Hai, 28/05/2012 - 12:44

Trầm Bê - Đại gia bí ẩn ngành ngân hàng

Ngày 26/5, ông Trầm Bê và con trai là ông Trầm Khải Hòa đã được bầu vào HĐQT của Ngân hàng Sacombank.

Họ tên: TRẦM BÊ













Chức vụ đang nắm giữ: +Thành viên HĐQT Ngân hàng Sacombank

+ Chủ tịch HĐQT Bệnh viện Triều An
+ Phó Chủ tịch CTCP Thương mại Vàng bạc đá quý Phương Nam (NJC).


+ Thành viên HĐQT CTCP Đầu tư Xây dựng Bình Chánh (BCCI)
Lĩnh vực kinh doanh Bất động sản, Ngân hàng

Thường trú  Q.6, TP Hồ Chí Minh
Gia đình: Vợ: Viên Đông Anh


Con trai: Trầm Trọng Ngân


Con trai: Trầm Khải Hòa


Con gái: Trầm Thuyết Kiều

Tài sản: Cổ phần tại Ngân hàng Phương Nam, BCCI, Bệnh viện Triều An…
Quá trình công tác
+ Từ 1986 – 1990: Phó giám đốc xí nghiệp Hợp danh 1/5 Quận 6
+ Từ 1991 – 1994: Giám đốc Cty TNHH CB Lâm sản Đông Anh
+ Từ 1995 – 2001: Chủ tịch HĐQT Cty TNHH Đông Anh
+ Từ 2002 – 2004: Chủ tịch HĐQT Bệnh viện Dân lập Triều An
Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Sơn Sơn
+ Từ 2005 đến nay: Chủ tịch HĐQT Bệnh viện Dân Lập Triều An
- Thành viên HĐQT Ngân hàng Phương Nam Nhiệm kỳ IV (2004 – 2009)
Phó Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Phương Nam Nhiệm kỳ V (2009 – 4/2012)
Ông Trầm Bê là người đi lên từ bất động sản. Từ năm 1994-1999 ông là phó Ban quản lý dự án Khu dân cư An Lạc Bình Trị Đông. Từ năm 1999 đến nay là thành viên HĐQT của CTCP Đầu tư Xây dựng Bình Chánh (BCCI).
Tuy nhiên, ông Bê có phần nổi tiếng hơn trong lĩnh vực ngân hàng với vai trò là cổ đông lớn và Phó Chủ tịch Ngân hàng Phương Nam.
Ngoài ra, ông là Chủ tịch của Bệnh viện Triều An – một bệnh viện tư nhân lớn tại Tp.HCM và cùng với các con tham gia HĐQT của một số công ty khác như CTCP Vàng bạc đá quý Phương Nam (NJC) và CTCP Chứng khoán Phương Nam (PNS).
Đang/đã từng là Chủ tịch HĐQT của CTCP Địa ốc Bình Tân.
5/2012: Tham gia HĐQT Sacombank
Tài sản
Trên sàn chứng khoán, ông Bê sở hữu 2,21 triệu cổ phiếu BCI, tương ứng 3% vốn điều lệ CTCP Đầu tư Xây dựng Bình Chánh. Lượng cổ phiếu này hiện có trị giá hơn 40 tỷ đồng.
Tính đến đầu năm 2012, Ông Bê và 2 con Trầm Thuyết Kiều, Trầm Trọng Ngân nắm giữ gần 20% cổ phần của Ngân hàng Phương Nam.
Mặc dù không có tên trong danh sách các cổ đông lớn của Sacombank nhưng Ngân hàng Phương Nam cùng một số liên quan đã có tới 4 ghế trong HĐQT mới của Sacombank.

Ngay từ khi bắt đầu xuất hiện những tin đồn về việc Sacombank bị thâu tóm, Trầm Bê là một trong những cái tên được nhắc đến đầu tiên. 
Theo quy định hiện hành, một người chỉ có thể là Thành viên HĐQT của một tổ chức tín dụng.
Vì vậy, ông Trầm Bê cùng con trai là ông Trầm Khải Hòa đã rút khỏi ban lãnh đạo của Ngân hàng Phương Nam để tham gia vào HĐQT của Sacombank.
Gia đình
Ông Trầm Bê là con trai lớn trong một gia đình nghèo có 4 anh em; quê quán tại xã Hàm Giang, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh.
Ông Trầm Bê cùng vợ là bà Viên Đông Anh có 3 người con gồm ông Trầm Trọng Ngân, bà Trầm Thuyết Kiều và ông Trầm Khải Hoà.
Bà Trầm Thuyết Kiều (sinh năm 1983) hiện nắm gần 10% cổ phần của và là Phó Tổng Giám Đốc Khối khách hành tổ chức Ngân hàng Phương Nam. Bà Kiều cũng là Phó TGĐ của Vàng bạc đá quý Phương Nam (NJC).
Ông Trầm Trọng Ngân – TGĐ Công ty CTCP Chế biến thủy hải sản Sơn Sơn chuyên về chiếu xạ, xuất khẩu Thanh Long.
Ông Trầm Khải Hòa (sinh năm 1988) được bầu làm Chủ tịch Chứng khoán Phương Nam (PNS) từ tháng 10/2011.

Hoạt động kinh doanh
Một trong những công trình lớn được ông Trầm Bê đầu tư (thông qua Công ty TNHH Xây dựng Hàm Giang) là Cụm Cảng Long Toàn có số vốn khoảng 1.700 tỷ đồng, diện tích trên 170ha tại huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Dự án được khởi công vào đầu năm 2010.
Một dự án lớn khác là đầu tư 60 triệu USD để mua lại khu Cupertino Square, trước đây được biết dưới cái tên là Valco Fashion Park.
Thuộc tuýp người ít xuất hiện trên báo giới, những lần hiếm hoi ông Bê lên tiếng là vụ nguyên Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Phương Nam Lê Anh Kiệt bị bắt hay lần con trai Trầm Trọng Ngân bị bắt cóc đòi tiền chuộc 10 triệu USD.
Một số công ty liên quan đến gia đình ông Trầm Bê
Hoạt động từ thiện
Qua báo chí có thể thấy gia đình ông Trầm Bê đã chi nhiều tiền cho công tác từ thiện như xây trường học, xây chùa…
Trong số đó có công trình nổi tiếng là Chùa Vàm Ray tại quê hương của ông. Đây được xem là ngôi chùa phật giáo lớn nhất Việt Nam.
Theo TTVN
--------------------------------------
Trích nguồn: www.dddn.com.vn

Nguồn: http://dddn.com.vn/2012052812404956cat196/tram-be-dai-gia-bi-an-nganh-ngan-hang.htm 
----------------------------
Mời các bạn xem loạt ảnh về dinh thự của doanh nhân Trầm Bê của anh NHT được đăng trên Blog của hội.
http://cuuhocsinhc3bhh.blogspot.com/2012/04/tham-dinh-thu-cua-doanh-nhan-tram-be.html


Thứ Năm, 3 tháng 5, 2012

Cần bảo tồn những cây cầu ngói

Cầu ngói chợ Thượng nằm trên địa bàn thôn Thượng Nông, xã Bình Minh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, hiện đang dần xuống cấp, nhưng hầu như không nhận được sự quan tâm bảo tồn tu bổ nào, dù đã được xếp hạng.

Kiến trúc vô giá
Từ thành phố Nam Định qua cầu Đò Quan, đi theo đường 21 khoảng 14 km, rẽ phải theo đường Trắng khoảng 5 km là đến di tích cầu ngói chợ Thượng. Cây cầu xây dựng theo lối kiến trúc độc đáo “Thượng gia hạ kiều” (trên là nhà dưới là cầu) bắc qua sông Ngọc, gần chợ Thượng, thôn Thượng Nông. Cầu được xây dựng theo kiểu tứ hàng chân, khung gỗ lim và lợp ngói nam. Ngoài giá trị lịch sử, cây cầu còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của người dân địa phương.
Cầu ngói chợ Thượng, xã Bình Minh, Nam Trực, Nam Định, xây dựng từ thời Hậu Lê (ảnh chụp năm 2010). Ảnh: Đoàn Đức Thành

Cầu ngói chợ Thượng được xây dựng từ thời Hậu Lê, với sự đóng góp công đức của bà chúa Nguyễn Thị Ngọc Xuân - cung phi của chúa Trịnh. Cầu gồm hai mố được xây dựng hoàn toàn bằng các tảng đá to nhỏ khác nhau, tảng lớn cỡ 1,7m x 0,6m x 0,4m; tảng nhỏ cỡ 0,5m x 0,4m x 0,2m, được xếp khéo léo theo thứ tự lớn dưới nhỏ trên. Tính từ mặt nước trung bình thì mố cầu rộng 3,7m, được xây vuốt theo hình thang cân, với cạnh trên là 2,84m. Mố cầu dài 6,5m, hai mố cách nhau 4,5m tạo khoảng trống cho dòng nước lưu thông và thuyền bè qua lại. Dầm cầu được làm bằng hai cây gỗ lim, đường kính 0,4m. Bên trên hai thanh dầm dọc là 4 thanh dầm ngang cũng bằng gỗ lim đường kính 0,2m, có đầu nhô ra ngoài (dùng để đỡ chân cột bên trên). Mặt cầu được tạo bởi đường giữa cầu và hai hành lang. Đường giữa cầu rộng 1,74m và được lát đá tảng xen kẽ nhau. Hai bên hành lang cũng lát đá tảng tạo phần gờ cao hơn phần mặt cầu là 0,15m.

Nhà cầu dựng bằng khung gỗ lim, mái lợp ngói nam, hai hồi xây tường, mở cửa cuốn rộng 1,7m, cao 2m, hai bên là hai cửa giả. Hai hồi đều có đại tự đắp nổi “Thượng gia kiều” bằng chữ Hán. Nhà cầu có 11 gian kết cấu kiểu kèo cầu tứ hàng chân, mỗi gian từ 1,45m đến 1,65m tạo nên một công trình dài 17,35m nối hai bờ sông. Hai hàng cột cái mỗi hàng 10 cột cạnh vuông 0,2m cao 2m đặt sát hai bên lòng xà cầu. Các cột quân lại được làm bằng trụ tròn đường kính 0,17m, cao 1,65m đặt trên các đòn ngang hai bên hông cầu. Bên trên cột là hệ thống vì kèo đỡ mái với 10 bộ được làm kiểu kèo cầu đơn giản, các hoành mái nối mộng với vì để tạo khoảng trống tối đa cho lòng cầu. Các bộ vì tạo thành những cánh tay đòn con vuông vươn qua cột cái, cột quân đến tận riềm mái.

Đặc biệt ở 3 gian giữa cầu, các nghệ nhân xưa đã xây bệ cao 0,4m dọc hai bên hành lanh, phía ngoài có lan can con song gắn mộng vào 4 cột quân giữa cầu. Bệ trở thành chỗ ngồi nghỉ ngơi, ngắm cảnh sông nước lý tưởng cho nhân dân địa phương. Ngoài ra ở hai đầu cầu đều có xây bậc thoải xuống mặt đường tạo điều kiện cho nhân dân đi lại dễ dàng.

Không phổ biến như cầu sắt, cầu đá hay cầu gỗ thông thường, cầu ngói là một dạng kiến trúc độc đáo và hiếm thấy nhất ở Việt Nam. Hiện nay, chỉ còn một số cây cầu như: Cầu ngói chùa Lương ở Hải Hậu, Nam Định; cầu ngói Thanh Toàn ở Hương Thủy, Thừa Thiên – Huế; cầu ngói Phát Diệm ở Kim Sơn, Ninh Bình.

Cần sớm có biện pháp bảo tồn

Năm 2003, cầu ngói chợ Thượng được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh, nhưng tới nay vẫn chưa có phương án bảo tồn cầu trước sự xuống cấp và mối mọt của cầu theo thời gian. Trải qua hơn hai thế kỷ tồn tại và chỉ được tu sửa một lần vào năm 1993, ở hai bên mố cầu hiện đã bị nước làm xói mòn, chân đá của cầu. Vấn đề cấp bách hiện nay đó là cần có những biện pháp kịp thời đắp lại chân cầu chống sự lún, nứt. Bên cạnh đó, một số hộ dân làm nhà, quán sát chân cầu cũng làm ảnh hưởng tới cảnh quan và môi trường sinh thái xung quanh cầu.

Ông Nguyễn Văn Kha - người quản lý cầu ngói của thôn Thượng Nông cho biết: “Do không có kinh phí thuê người trông coi và cầu gần chợ dân sinh, nên cứ khi có phiên chợ là chân cầu lại ngập rác. Ngoài ra, một số hộ dân sinh sống cạnh cầu thiếu ý thức đã xả thải rác ra khu vực chân cầu gây mất vệ sinh, cũng như ảnh hưởng tới cảnh quan di tích”.

Chị Nguyễn Thị Tho - cán bộ văn hóa xã Bình Minh cho biết: “Hiện nay di tích cầu ngói chợ Thượng đang xuống cấp nghiêm trọng, năm 2011 xã đã phối hợp với Phòng Văn hóa và Ban Quản lý di tích và danh thắng tỉnh Nam Định lập hồ sơ đề nghị công nhận di tích cấp quốc gia, cũng như đề nghị các cấp xem xét hỗ trợ kinh phí để tu sửa, chống xuống cấp, nhưng đến nay vẫn chưa được xét duyệt”. Trước tình trạng cầu ngói chợ Thượng đang dần xuống cấp, rất cần có những phương án, biện pháp bảo tồn, cùng với đó là việc tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về di tích và ý thức bảo vệ những giá trị văn hóa của dân tộc.

Lê Đoàn

Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012

Cấp cứu tại chỗ cho bệnh nhân bị tai biến mạch máu não

Nếu một người bỗng nhiên bị chóng mặt choáng và té ngã hay trượt chân có thể đó là dấu hiệu của Tai biến mạch máu não.
XÁC ĐỊNH - TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO (TBMMN)
Hệ thần kinh não bộ của nạn nhân Tai biến mạch máu não có thể bị tàn phá nhanh chóng và kinh khủng, khi những người chung quanh không phát hiện và cứu chữa kịp thời. Thực ra, cũng có thể nhận diện và cấp cứu tại chỗ cho người bị Tai biến mạch máu não rất hữu hiệu , bằng công thức sau : C.N.G
-C: yêu cầu người đó Cười.
-N: yêu cần người đó Nói.
-G: yêu cầu người đó Giơ tay lên.

Thứ Ba, 13 tháng 3, 2012

Chùa Lương, Đền Thuỷ tổ

Chùa Lương
Chùa Lương, tên tự là chùa Phúc Lâm (còn gọi là Chùa Trăm gian): Chùa được xây dựng sớm nhất Quần Anh, vào khoảng cuối thế kỷ XV (1485- 1500). Chùa làm ở ngay bắc chợ Lương nên người ta cũng gọi là chùa Lương. Khi mới làm, chùa được lợp cỏ, sau lợp ngói .
Năm 1589, tạo đôi bình Bát Tràng; năm1682, tạo rồng đá cầu ao; năm 1684, làm mới tả hữu hành lang, hậu phòng; năm 1725, làm lại toà hương án tiền; năm 1726, dựng cây thiên đài thạch trụ; từ năm 1746- 1748 (3 năm), làm lại thượng điện, tiền đường, tượng Phật, tam quan, hoành long, hậu phòng; năm 1750, đúc thanh la đồng và trống đồng; năm 1763, đúc tượng Phật Tam thế (năm 1796, Cảnh Thịnh thứ 4, tượng đồng và đồ đồng trong chùa bị triều đình thu để đúc vũ khí); năm 1797, đúc tượng Phật Thích ca; năm 1826, đúc chuông lớn (nay treo ở gác chuông); năm 1834, sửa lại tiền đường, hậu đường, nhà tổ, tả hữu hành lang, tam quan; năm 1883, đào hồ trước chùa; năm 1836, làm lại gác chuông cao 3 tầng; năm 1997, đại tu hành lang tây; năm 1998, xây tượng đài giữa hồ và xây bờ hồ, năm 2005, đại tu hành lang tây; năm 2006, xây lại nhà tổ.

Cầu Ngói di tích lịch sử văn hóa

Cầu cách chùa Lương 150 m, nằm trên trục đường gắn liền với chùa, đền thành một cụm di tích. Theo “Quần Anh địa chí”, cầu được hình thành cùng thời gian với chùa Lương.
Qua đôi câu đối trên cầu cho thấy Thuỷ Tổ đã quan tâm đến việc bắc cầu ngay từ thời gian đầu tiến hành khẩn hoang: “Lê Hồng Thuận Tứ tính thuỷ mưu giá ốc biệt thành giang thượng lộ”. “Hoàng Khải Định thất niên trùng tấp dư lương y cựu kính trung thê”. Nghĩa là:
“Đời Hồng Thuận (1509 – 1515) bốn họ tính kế dựng nhà trên cầu, thành đường trên nước”. “Đời Khải Định thứ 7 (1922) tu sửa như cũ, từng bậc xếp lên gương”.
Cầu Ngói

Thứ Tư, 8 tháng 2, 2012

Năm Thìn nói chuyện Rồng

Rồng là  loài vật xuất hiện trong thần thoại phương Đông và phương Tây, hình ảnh loài rồng được biểu thị cho loài linh vật huyền thoại có sức mạnh phi thường. Rồng ở các nước châu Á có nhiều khác biệt với rồng ở các nướcchâu Âu và châu Mỹ .Tại một số nước châu Á, rồng có mình rắn vảy cá bờm sư tử sừng hươu và biết bay. Đa số các nước châu Á coi rồng là con vật linh thiêng trong khi các nước châu Âu lại coi rồng là biểu tượng của cái ác và sự hung dữ.
Rồng có tồn tại thật hay không, vẫn còn nhiều tranh cãi, để có thêm cái nhìn về vấn đề này tôi xin post ra đây một tài liệu lượm được trong lúc lang thang tìm dữ liệu :
(Vui lòng Click chuột vào hình dưới đây để coi lớn hơn)

Thứ Năm, 13 tháng 10, 2011

Những bức tượng lạ nhất thế giới

Mời bạn ngắm các bức tượng kỳ quặc được dựng ở khắp nơi trên thế giới, những bức tượng với hình dáng độc đáo khiến du khách một lần tới thăm sẽ không thể nào quên.




























nguồn internet
NHT sưu tầm





Chủ Nhật, 28 tháng 8, 2011

Phở Nam Định đặc sắc của vùng quê

Đã từ lâu, phở Nam Định đã trở nên quen thuộc với mọi người không chỉ trên quê hương Nam Định mà còn ở nhiều tỉnh thành khác trong cả nước. Gần như phở Nam Định đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng, trong khi phở Hà Nội có vị thế tại thủ đô thì phở Nam Định cũng không hề thua kém gì phở Hà Nội. Nhưng phở Nam Định có nguồn gốc, xuất xứ riêng biệt và đặc điểm khác biệt không thể lẫn với phở của vùng khác được.
Phở Nam Định – “ lý thú” ngay từ xuất xứ và tên gọi
Qua bến Đò Quan, xuôi tỉnh lộ 55 về huyện Nam Trực trên chục cây số là tới Vân Cù. Những cái tên địa danh gắn liền với phở như Giao Cù, Tây Lạc, Vân Cù, Đồng Sơn…hay có thể gọi chung là phở Nam Định đã làm mê mẩn những thực khách khó tính nhất trên mọi miền Tổ quốc. Nhiều người cho rằng nguồn gốc của phở có thể từ Trung Quốc hay Pháp nhưng phở Vân Cù khởi nguyên từ lâu lắm, vẫn tồn tại và nổi tiếng đến giờ.
Theo lời kể của ông Cồ Viết Minh năm nay đã 75 tuổi là người làng Vân Cù- chủ cửa hàng phở Đồng Nguyên có địa chỉ tại 45 Trần Nhật Duật, thành phố Nam Định thì từ nhỏ ông đã thấy phở Vân Cù đã có từ lâu rồi. Trước những năm 1950 ông làm thuê cho cửa hiệu Hoa Kiều, sau khi hòa bình lập lại (năm 1954) ông đã mở cửa hiệu riêng. Từ những năm 1960 ông tham gia ngành Mậu dịch, năm 1975 ông chuyển về khách sạn Vị Hoàng làm việc và năm 1984 ông đã tham gia “Hội thi nấu ăn toàn quốc ngành du lịch” tại Vũng Tàu ông đã đạt một lúc cả ba giải vàng, bạc, đồng cho ba món ăn của mình. Cũng theo ông, trước đây phở Nam Định chủ yếu là phở bò và phở gà, nhưng cùng với những biến đổi theo thời gian và nhu cầu đa dạng của thực khách, phở Nam Định cũng có những thay đổi không còn nguyên vẹn hương vị ngày xưa. Từ việc chỉ chuyên bán phở bò, mà cũng là phở bò chín, đến việc có thêm phở tái, nạm, gầu, phở gà, phở kèm thịt lợn, rồi đến phở xào bò, gà…đến việc chế biến gia vị phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng của từng vùng miền của đất nước và giữa thủ đô của phở thì phở Nam Định vẫn giữ được những hương vị riêng, truyền thống.
Tại sao lại có tên là phở?
Phở Nam Định với hương vị riêng là một phần không thể thiếu trong văn hóa phở Việt Nam. Có nhiều tài liệu cho rằng phở xuất phát đầu tiên tại Nam Định ngay sau khi có nhà máy Dệt Nam Định, những gánh phở cũng xuất hiện. Đó là những gánh phở rong của người làng Vân Cù – Nam Định. Họ đã nghĩ ra một món ăn đêm để phục vụ thợ thuyền của khu công nghiệp đầu tiên của Việt Nam là những công nhân dệt.
Ngày xưa, khách ăn phở thường gọi những hàng phở gánh ở đầu phố hoặc đi rong ngoài đường. Một đầu gánh là chiếc chạn con đựng bát đũa, các lọ gia vị và có ngăn kéo đựng bánh phở, thịt bò; đầu kia là bếp lò với nồi nước dùng lúc nào cũng sôi sùng sục được đun bằng than. Khi đó người Pháp nhìn thấy gánh hàng rong với bếp lò đỏ lửa và để gọi người bán món ăn này họ gọi “PHƠ” (tiếng Pháp là FEU – có nghĩa là lửa), như vậy người bán hàng cũng hiểu là họ gọi món ăn và từ đó tên món ăn này – Phở mới chính thức được gọi như vậy.
Quy trình sản xuất bánh phở Vân Cù
Bánh phở là một trong những nguyên liệu chính tạo nên món phở, nếu thiếu nó thì đã trở thành một món ăn khác như bún, miến, mỳ…chứ không còn là phở nữa. Quy trình làm bánh phở hầu hết đều làm theo một cách làm giống nhau. Đầu tiên là việc lựa chọn gạo, gạo làm bánh phở phải là gạo ngon, đạt tiêu chuẩn, nhiều bột và bánh dai, gạo này phải được xay xát thật trắng thì khi làm ra bánh phở mới trắng và bong. Khi có gạo đạt tiêu chuẩn rồi người ra cho gạo vào ngâm nước trong khoảng thời gian nhất định để gạo ngấm đủ nước sau đó vớt gạo ra và vo đãi cho sạch nước gạo, gạo được cho vào cối xay thành bột, bột xay phải mịn thì bánh làm ra mới mềm, dai. Bột xay xong thì được chuyển sang công đoạn tráng bánh. Ngày xưa người ta tráng bánh theo cách thủ công mà cách thức giống như họ tráng bánh cuốn bây giờ, bánh tráng thủ công thì không đều, bánh dầy và cứng. Còn bây giờ người ta tráng bánh bằng máy theo hệ thống dây chuyền, chính vì vậy mà bánh đều, mỏng, bong và ngon hơn. Bánh phở được chín bằng hơi nước nóng, vì thế lò tráng bánh phải đủ nhiệt thì bánh mới chín thấu. Bánh phở thành phẩm đạt yêu cầu phải là: trắng mềm, mỏng, có độ bong, dai khi ăn vẫn có độ giòn.
Phở Nam Định – Đặc sắc ở nước dùng (nước phở)
Nước phở là điểm khác biệt lớn nhất, mang đậm tính gia truyền mà mỗi gia đình có một công thức pha chế riêng của mình. Phở ngon hay không là do chất lượng của nước dùng quyết định, đó là bí quyết mà những người thợ chỉ truyền lại cho con cháu mà không ai tiết lộ ra ngoài. Nước dùng của phở được ninh từ xương ống của bò cùng với một số gia vị. Xương rửa sạch cho vào nồi đun nước lạnh, đun lửa thật lớn cho đế khi nước đã sôi thì phải giảm bớt lửa và bắt đầu vớt bọt. Khi đã vớt hết bọt, cho thêm 1 ít nước lạnh và lại đợi nước tiếp tục sôi tiếp để vớt bọt…Cứ làm như vậy liên tục cho đến khi nước trong vắt và không còn cặn trong bọt nữa. Nước phở càng ngọt, càng trong bao nhiêu thì phở càng ngon bấy nhiêu. Đặc biệt cần chú ý là hạn chế cho muối vào nước phở, vì cho muối nhiều thì nước phở sẽ bị chát. Chỉ cần cho muối thật ít để giữ được vị mặn, thay cho muối là nước mắm. Mà nước mắm phải là loại thơm, ngon để giữ được độ trong của nước phở. Ngược lại nếu nước mắm không ngon, hay có màu thì nước phở sẽ bị gắt, bị vẩn đục và kém ngọt. Để cho nước phở ngon hơn khi hầm nhừ xương thì hãy cho ít gừng, ít sá sùng, hành khô…Sau đó, cho một ít gia vị vào và điều chỉnh độ lửa sao cho nồi nước chỉ sôi lăn tăn để giữ cho nước khỏi bị đục. Hương vị thơm ngon của nước dùng chủ yếu do các loại gia vị quyết định. Tuy nhiên, công thức của từng loại nước dùng cụ thể cho từng hiệu phở được giữ khá bí mật. Mặc dù vậy, có thể nhận thấy các loại gia vị này có thể bao gồm thảo quả, sá sùng, gừng, hoa hồi, đinh hương, hạt ngò gai, thanh quế, hành khô, tôm nõn…
Vượt ra khỏi ranh giới – trở thành “thương hiệu”
Không biết được ai sinh ra nghề phở ở Vân Cù, chỉ biết rằng ông Cồ Hữu Vặng là một trong những người đi tiên phong đưa phở gánh ra Hà Nội vào những năm 1930. Đến từ những năm 1979-1980, mặc dù kinh tế còn khó khăn nhưng thời điểm này nghề làm bánh phở và bán phở phát triển mạnh ở Hà Nội, Sài Gòn và các nơi khác…Giờ đây, phở Nam Định đang ngày càng được nhiều người biết đến, người dân Nam Định cũng tự hào là phở Nam Định đã vượt ra khỏi ranh giới đất mẹ để trở thành một món ăn được mọi người biết đến không chỉ tại quê hương mình mà còn ở mọi miền Tổ quốc với cái tên “ Phở Nam Định”.
Không những thế trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và thông tin khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, phở Nam Định có cả một trang web riêng do một người làng Vân Cù quản lý, website http://phogiatruyennamdinh.com.vn giới thiệu về phở Nam Định, về cách thức làm bánh phở…

Theo Phogiatruyennamdinh

Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2011

GẠO TÁM XOAN HẢI HẬU - NAM ĐỊNH

"Cơm Tám ăn với chả chim.  

Chồng đẹp, vợ đẹp những nhìn mà no". 

Không biết trong dân gian có bao nhiêu câu ca dao tục ngữ nói về sự quý giá, cao sang của hạt gạo Tám xoan - loại gạo kén cả nồi thổi, lẫn thức ăn đi cùng. Chả thế, một thời gạo Tám xoan đã khiến cả dãy phố Hà Nội trở nên nổi tiếng. Khách sang, kén ăn dù ở đâu về cũng tìm đến phố cơm Tám giò chả Hàng Buồm để thưởng thức.


Theo các cụ "lão nông tri điền" ở Hải Hậu - nơi có gạo Tám xoan nổi tiếng cả nước, thứ gạo trắng trong, thơm ngon tinh khiết này là sự gắn kết tuyệt vời của thiên nhiên và con người. Cũng như nhãn Hưng Yên, cam Bố Hạ, chè Thái Nguyên,... đâu phải xã nào, huyện nào cũng trồng được. ở Hải Hậu, gạo Tám Xoan chỉ trồng được ở vùng đất "Cửu An, Nhất Phúc" (tên gọi của 9 thôn có chữ đầu là An và thôn Phúc Khải) của vùng ven sông Ninh và sông Kim Giang.

Gạo Tám Xoan có từ bao giờ?
Hải Hậu vốn là huyện có trình độ thâm canh và năng suất lúa cao trong cả nước. "Vật đổi, sao dời", nhưng gạo Tám thơm vùng quê Hải Hậu vẫn giữ được tiếng thơm đến tận bây giờ. Những năm tháng chiến tranh, cho dù năng suất thấp, kỹ thuật trồng cấy cầu kỳ, nhưng các xã có chân ruộng cấy gạo Tám vẫn không bỏ đi thứ đặc sản quý báu mà cha ông để lại. Nhờ vậy, ngày ấy mỗi khi có khách quốc tế đến Việt Nam, cơm Tám vẫn có mặt trong các bữa cơm mời bạn.
Cụ Hiếu ở xã Hải Giang - người cao tuổi nhất trong xã đã 70 năm sống bằng nghề nông - cho biết: "Trồng lúa Tám khó và công phu lắm. Nhưng công người bỏ ra bao nhiêu thì hạt gạo dâng tặng lại cho hương thơm bấy nhiêu. Chứ lúa Tám mà cứ trồng tràn lan và bón đầy phân hoá học thì khi thổi cơm chỉ có mà nhạt thếch".
Chẳng biết từ bao giờ, người trồng lúa Tám thơm ở Hải Hậu cứ cha truyền con nối, răm rắp làm theo công thức chọn đất tốt, cày ngâm, bừa ải, cấy sớm gặt muộn, khi gặt phải vào lúc lúa "chín tám" sau tiết hạn lộ, còn chăm bón thì phải phân chuồng, kèm phân xanh là lá xoan, lá tràm,... Đến những năm 1980, một vài nơi đã có máy xay xát hỗ trợ người nông dân, nhưng người làm lúa Tám Hải Hậu vẫn theo lối cổ truyền với những chiếc cối xay hoà nhịp cùng tiếng chày giã gạo thậm thịch thâu đêm. 

 
Tiếng lành đồn xa
Vào vụ gặt, nếu ai có dịp đi qua những cánh đồng của các xã Hải Toàn, Hải Phong, Hải An, Hải Giang,... những nơi có diện tích trồng lúa Tám dường như đều cảm thấy bầu không khí như được ướp hương thơm. Ra khỏi làng rồi mà vẫn tưởng như hương thơm lúa Tám phảng phất đâu đây. Vào nhà nào mà thấy ngoài những cót thóc tẻ lại có chum vại, phủ lá chuối khô đậy kỹ lưỡng thì biết là đựng thóc Tám. Những năm gần đây, với xu thế sản xuất hàng nông sản, ngoài các xã chuyên canh, một số địa phương khác trong huyện cũng chọn vùng đất tốt chuyển sang cấy lúa Tám. Chính vì thế sản lượng gạo Tám ở Hải Hậu có năm lên tới 10 nghìn tấn. Gạo xuất bán theo đường tiểu ngạch ra nước ngoài, bán trên thị trường trong Nam ngoài Bắc, nhưng tiêu thụ mạnh nhất vẫn là Hà Nội.
Song mua được gạo Tám Hải Hậu chính hiệu không phải dễ. Có trường hợp bao bì chữ in là thế, nhưng chất lượng sản phẩm bên trong lại không như ý muốn vì là gạo lai tạp không rõ xuất xứ. Đó còn chưa nói đến chuyện, nhiều giống lúa mới có hạt gạo thơm dài được người bán vò thứ lá có mùi thơm na ná như gạo Tám để đánh lừa người tiêu dùng,... Vì thế, khi Viện khoa học - kỹ thuật nông nghiệp kết hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nam Định xúc tiến xây dựng thương hiệu cho gạo Tám, người dân Hải Hậu rất vui mừng.

Theo Namdinh.gov.vn